Cơ sở lý thuyết
Khái niệm
Tài chính xanh có thể được hiểu một cách đơn giản nhất là một tập hợp các chiến lược và phương pháp để đạt được hoặc huy động và phân bổ quỹ (cả khu vực tư nhân và công, cũng như đóng góp từ thiện) để thu hẹp khoảng cách đầu tư lớn trong việc tạo ra và duy trì các công trình mới, có khả năng thích ứng với khí hậu, cơ sở hạ tầng bền vững. Điều này sẽ giúp các quốc gia giải quyết nhiều thách thức xã hội, đáp ứng các cam kết hành động khí hậu của họ và quyết tâm quốc gia đóng góp phù hợp với Thỏa thuận Paris và đạt được mười bảy mục tiêu phát triển bền vững của Liên Hợp quốc trong thập kỷ hiện tại từ năm 2021 đến năm 2030 (Nawaz và cộng sự, 2021).
Các thuật ngữ liên quan đến các phương thức tài chính xanh
- Tài chính cacbon: Các công cụ tài chính dựa trên giá trị kinh tế của lượng khí thải cacbon mà một tổ chức không thể tránh được nhưng nó bù đắp bằng cách tài trợ cho các tổ chức khác các dự án bồi thường góp phần giảm phát thải cacbon.
- Trái phiếu xanh:Tiền thu được chỉ được sử dụng để tài trợ hoặc tái cấp vốn cho các dự án với lợi ích môi trường rõ ràng.
- Quỹ xanh: Tài trợ nợ và vốn chủ sở hữu cung cấp cho khách hàng nền tảng cho tài trợ dài hạn của các doanh nghiệp và tổ chức thân thiện với môi trường.
- Tín dụng xanh: Các khoản vay dự án (chủ yếu là thế chấp) và các khoản vay công nghiệp có thể được tạo điều kiện thông qua ký gửi xanh.
- Tài chính khí hậu: Tài chính thúc đẩy khả năng phục hồi khí hậu của cơ sở hạ tầng, cũng như các tài sản xã hội và kinh tế.
Thực trạng tài chính xanh ở Việt Nam
Luật Bảo vệ Môi trường năm 2020 có hiệu lực từ ngày 01/01/2022, đưa ra nhiều chính sách đột phá liên quan đến phân loại dựa trên tiêu chí môi trường đối với các dự án đầu tư, giấy phép môi trường, kinh tế tuần hoàn,... để tăng cường tuân thủ pháp luật về bảo vệ môi trường. Luật điều chỉnh các hoạt động của các ngân hàng với sự bền vững và ngân hàng có trách nhiệm với môi trường. Luật xác định 7 loại tài chính xanh và 10 loại trái phiếu xanh tại Điều 149 và 150, cho phép các tổ chức tín dụng quảng bá sản phẩm mới, tiếp cận các lĩnh vực mới và tiếp cận các nguồn tài trợ mới với chi phí thấp hơn; đồng thời được coi là công cụ cho vay của các ngân hàng nhằm mục đích bảo vệ môi trường. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề tăng trưởng xanh, biến đổi khí hậu và bền vững, Chính phủ Việt Nam đã ban hành các văn bản, như: Chiến lược Tăng trưởng Xanh Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 (Quyết định số 1393/QĐ-TTg, tháng 9 năm 2012); Kế hoạch hành động thực hiện Thỏa thuận khí hậu Paris (Quyết định số 2053/QĐ-TTg, tháng 10/2016); Kế hoạch hành động quốc gia thực hiện Chương trình nghị sự 2030 về phát triển bền vững ban hành kèm theo Quyết định số 622/QĐ-TTg, tháng 5 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ (Cục Xúc tiến thương mại, 2022).
Hình: Dư nợ tín dụng xanh tại Việt Nam trong giai đoạn 2015 – 2022
(Nguồn: Vụ Tín dụng các ngành kinh tế - Ngân hàng Nhà nước)
Trong giai đoạn 2015 - 2022, dư nợ cấp tín dụng xanh tăng. Tuy nhiên, tỷ trọng tín dụng xanh vẫn còn khiêm tốn trong tổng dư nợ tín dụng nền kinh tế.
Nguồn vốn quốc tế có lãi suất thấp hơn, lại được ưu tiên giải ngân, tín dụng xanh đang thực sự hấp dẫn. Hiện ngày càng nhiều ngân hàng đưa ra các gói vay xanh. Đến cuối năm 2022, dư nợ cấp tín dụng đối 12 dự án xanh do Ngân hàng nhà nước xây dựng và ban hành từ năm 2015 đạt gần 500.000 tỷ đồng (chiếm khoảng 4,2% tổng dư nợ nền kinh tế).
Hiện nay, Việt Nam đã có các quy định cơ bản về trái phiếu xanh. Tuy nhiên, việc thiết lập khung khổ pháp lý vẫn còn một số tồn tại cần sớm hoàn thiện. Tháng 7/2022, EVNFinance là doanh nghiệp đầu tiên tại thị trường Việt Nam phát hành trái phiếu xanh theo tiêu chuẩn quốc tế của Hiệp hội Thị trường vốn quốc tế (ICMA). Trong khối ASEAN, Việt Nam là nguồn phát hành nợ xanh lớn thứ hai, đạt 1 tỷ USD, chỉ sau Singapore.
Tài chính xanh tại Việt Nam tập trung vào các tổ chức tín dụng lớn. Chưa có nhiều tổ chức tín dụng nhỏ quan tâm đến danh mục cho vay này. Lý do là nguồn vốn dài hạn và lớn của các tổ chức tín dụng nhỏ không đồng đều, ổn định để phục vụ các dự án như năng lượng tái tạo, năng lượng sạch... Bên cạnh đó, những dự án lớn, phức tạp, đòi hỏi quy trình bảo lãnh phức tạp mà các ngân hàng nhỏ chưa áp dụng được. Theo Trung Nguyên (2023), các tổ chức tín dụng đã chủ động tìm kiếm cơ hội hợp tác với nhiều tổ chức quốc tế để triển khai cho vay chương trình tín dụng xanh, như: Dự án chuyển hóa cacbon thấp sang lĩnh vực tiết kiệm năng lượng (Dự án GIF); Sản phẩm cho vay dự án phát triển năng lượng tái tạo từ nguồn vốn World Bank (Dự án REDP); Sản phẩm cho vay dự án hiệu quả năng lượng cho ngành công nghiệp Việt Nam (nguồn vốn WB); Sản phẩm cho vay lại các Dự án năng lượng tái tạo từ nguồn vốn vay Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản...
Ngày 18/7/2022, Sở Giao dịch Chứng khoán TP. HCM (HSX) vừa công bố rổ chỉ số VNSI (Viet Nam Sustainability Index - Chỉ số phát triển bền vững) bao gồm 20 cổ phiếu thuộc VN100 có tính phát triển bền vững tốt nhất thị trường. Từ đó, cho thấy cơ hội phát triển thị trường cổ phiếu xanh tại Việt Nam trong tương lai. Với xu hướng phát triển bền vững, các quỹ đầu tư lớn ưu tiên rót vốn vào các dự án hướng đến mục tiêu đáp ứng được ESG (Environmental, Social, and Governance - Môi trường, Xã hội và Quản trị), vì thế các doanh nghiệp có thể nằm trong được chỉ số VNSI sẽ giúp doanh nghiệp có nhiều cơ hội tiếp cận được với dòng vốn lớn từ nước ngoài để phát triển theo hướng bền vững.
Tại Hội nghị lần thứ 26 các Bên tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu (COP26), Thủ tướng Chính phủ đã đưa ra cam kết của Việt Nam đưa phát thải ròng về “0” vào năm 2050, vì vậy phát triển tài chính xanh là mục tiêu tất yếu của Việt Nam trong những nỗ lực để đạt được mục tiêu trên.
Kết luận và khuyến nghị
Nghiên cứu đã phân tích tổng quan các khái niệm liên quan đến tài chính xanh, thực trạng ở khu vực ASEAN và tại Việt Nam. Xu hướng tài chính xanh đang phát triển trên thế giới, mặc dù có nhiều vấn đề phải giải quyết để phát triển xu hướng này. Khoảng cách tài chính trong đầu tư xanh là kết quả của sự không nhất quán trong chính sách tài chính và môi trường. Vì vậy, cần có chính sách, quy định phù hợp để giải quyết các vấn đề nhất định.
Vì thế, để giúp phát triển tài chính xanh tại Việt Nam nói riêng, tác giả xin đề xuất một số giải pháp như sau.
Thứ nhất, Chính phủ nên đóng một vai trò lớn hơn bằng cách ban hành các chính sách môi trường thích hợp phải mang tính chất bắt buộc khu vực tài chính để giúp thị trường tài chính trở nên bền vững hơn.
Thứ hai, phát triển đa dạng các kênh của tài chính xanh, ổn định cơ sở hạ tầng phục vụ cho việc thực hiện các giao dịch tài chính. Với những ứng dụng của công nghệ thông tin, cần hiện đại hóa các quy trình giao dịch, cũng như cơ chế giao dịch phù hợp với thông lệ quốc tế.
Thứ ba, nâng cao tính minh bạch thông tin, giảm thiểu sự bất cân xứng về thông tin trên thị trường tài chính. Để từ đó có thể thu hút được sự tham gia của nhiều tổ chức tài chính, đặc biệt là các nhà đầu tư quốc tế, và nâng cao tính thanh khoản của các kênh đầu tư tài chính xanh. Đặc biệt, việc phát triển sàn giao dịch điện tử trái phiếu cũng là một phương án được nhiều quốc gia lựa chọn để tạo thanh khoản, tăng tính minh bạch và đảm bảo thuận lợi trong việc quản lý thị trường.
Cuối cùng, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp nên được chuyển đổi theo xu hướng công bố các thông tin về trách nhiệm xã hội (CSR - Corporate Social Responsibility). Ngoài ra, đẩy mạnh công nghệ sản xuất thân thiện với môi trường, cũng như công bố các thông tin về lượng phát thải cacbon trên báo cáo của họ.
Nguồn: Tạp chí Công Thương